Thành phần của Thuốc Durapil 30
Thông tin thành phần |
Hàm lượng |
---|---|
Dapoxetine |
30mg |
Công dụng của Thuốc Durapil 30
Chỉ định
Thuốc Durapil được chỉ định dùng trong các trường hợp sau:
Dùng trong những trường hợp xuất tinh sớm ở nam giới độ tuổi từ 18 - 64 có các triệu chứng sau:
Xuất tinh dai dẳng và tái phát khi có sự kích thích về tình dục ở mức độ tối thiểu, trước, trong hoặc sau khi thâm nhập, trước khi bệnh nhân có chủ định.
Cảm giác lo lắng hoặc cảm giác khó chịu của việc xuất tinh sớm.
Khó kiểm soát hiện tượng xuất tinh.
Dược lực học
Cơ chế tác động
Dapoxetin là chất ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin mạnh (SSRI) với IC50 vào mức 1,12 nM, trong khi sản phẩm chuyển hóa của dapoxetin, là desmethyl dapoxetin (IC50 <1,0 nM) và didesmethyl dapoxetin (IC50 = 2,0 nM) có hiệu lực tương tương hoặc yếu hơn so với tiền chất (dapoxetin-N-oxid (IC50 = 282 nM)).
Hoạt động xuất tinh ở người chủ yếu qua được hoạt hóa qua trung gian của hệ thống thần kinh giao cảm. Con đường dẫn truyền tín hiệu cho việc xuất tinh có nguồn gốc từ trung tâm tủy sống, đến trung gian của thân não, mà bị ảnh hưởng đầu tiên bởi một số nhận nền trong não.
Cơ chế tác động của dapoxetin trong điều trị xuất tinh sớm được cho là có liên quan đến sự ức chế tái hấp thu serotonin tại tế bào thần kinh và ức chế điện thế dẫn truyền thần kinh tại thụ thể tiền và hậu synap. Trên chuột, dapoxetin ức chế phản xạ xuất tinh sớm bằng cách tác động vào bán cầu não, cụ thể là vị trí các vùng nhân nền chuyên biệt (LPGi). Vùng sợi hậu hạch giao cảm mà phân bố các thần kinh chi phối túi tinh, ống dẫn tinh, tuyến tiền liệt, cơ thắt niệu đạo và cổ bàng quang làm cho chúng co lại một cách phối hợp để đạt được sự xuất tinh. Dapoxetin điều phối phản xạ xuất tinh này ở chuột.
Hiệu quả và an toàn
Nghiên cứu về tính hiệu quả của dapoxetin trong điều trị xuất tinh sớm đã được thực hiện, thử nghiệm lâm sàng đối chứng giả dược, mù đôi, trong đó có tổng số 6081 đối tượng được chọn ngẫu nhiên. Đối tượng là 18 tuổi trở lên và có tiền căn xuất tinh sớm trong phần lớn các lần giao hợp trong thời gian 6 tháng trước khi tham gia nghiên cứu. Xuất tinh sớm được định nghĩa theo tiêu chuẩn chẩn đoán DSM-IV: Thời gian giao hợp ngắn (IELT: Thời điểm từ lúc thâm nhập vào âm đạo đến thời điểm xuất tinh trong âm đạo) ≤ 2 phút, được đo bằng đồng hồ bấm giờ trong bốn nghiên cứu), kiểm soát xuất tinh yếu, ghi nhận những khó khăn với việc duy trì cuộc giao hợp của các cặp tình trong các điều kiện cụ thể.
Đối tượng với các hình thức khác của rối loạn chức năng tình dục, trong đó có rối loạn chức năng cương dương, hoặc những người sử dụng các dược phẩm khác để điều trị xuất tinh sớm tất cả đều bị loại khỏi nghiên cứu.
Kết quả của tất cả các nghiên cứu ngẫu nhiên đã được thống nhất. Hiệu quả đã được chứng minh sau 12 tuần điều trị. Một nghiên cứu thu nhận các đối tượng bệnh nhân trải qua thời gian điều trị trong 24 tuần. Trong nghiên cứu, 1162 đối tượng được chọn ngẫu nhiên, 385 người dùng giả dược, 388 người dùng dapoxetin 30mg khi cần thiết. Giá trị trung bình và giá trị trung vị trung bình IELT (thời gian giao hợp) ở cuối cuộc nghiên cứu được trình bày dưới đây. Các nghiên cứu khác và phân tích gộp các dữ liệu ở tuần 12 đã cho kết quả phù hợp.
Bảng 2: Thống kê số liệu cuối cuộc nghiên cứu |
||
---|---|---|
Thời gian giao hợp (IELT) |
Giả dược |
Dapoxetin 30 mg |
Trung vị |
1,05 phút |
1,72 phút |
Khác biệt với giả dược [95% CI] |
|
0,6 phút ** [0,37, 0,72] |
Diện tích trung bình nhỏ nhất |
1,7 phút |
2,9 phút |
Khác biệt với giả dược [95% CI] |
|
1,2 phút ** [0,59, 1,72] |
Bảng 3: Các đối tượng đạt được khoảng thời gian giao hợp dài hơn sau dùng thuốc* |
||
---|---|---|
IELT (thời gian giao hợp) (số phút) |
Giả dược |
Dapoxetin 30 mg % |
≥ 1,0 |
51,6 |
68,8 |
≥ 2 |
23,2 |
44,4 |
≥ 3 |
14,3 |
26,0 |
≥ 4 |
10,4 |
18,4 |
≥ 5 |
7,6 |
14,3 |
≥ 6 |
5,0 |
11,7 |
≥ 7 |
3,9 |
9,1 |
≥ 8 |
2,9 |
6,5 |
*Giá trị nền được áp dụng cho những đối tượng không có giá trị nền trước đó. |
Độ lớn của IELT kéo dài có liên quan đến IELT nền trước đó và có khác biệt giữa các cá thể. Sự liên quan lâm sàng hiệu quả điều trị dapoxetin được tiếp tục chứng minh khi các bệnh nhân báo cáo các kết quả khác biệt giữa trước và sau khi dùng thuốc và kết quả phân tích mức đáp ứng điều trị.
Đáp ứng điều trị được định nghĩa là bệnh nhân có ít nhất một tăng 2 - hạng mục trong kiểm soát xuất tịnh, bên cạnh đó với ít nhất giảm 1 - hạng mục xuất tinh sớm. Tỷ lệ cao hơn đáng kể về mặt thống kê của các đối tượng đáp ứng trong mỗi nhóm dapoxetin so với giả dược vào cuối tuần nghiên cứu thứ 12 hoặc 24. Tỷ lệ phần trăm đáp ứng cao của trong nhóm dùng Dapoxetin 30 mg (11,1% - 95% CI [7,24; 14,87 ]) so với nhóm dùng giả dược ở tuần 12.
Sự liên quan giữa hiệu quả điều trị lâm sàng dapoxetin được đại diện bởi nhóm điều trị của đối tượng Clinical Global Impression of Change (CGIC), trong đó bệnh nhân được yêu cầu so sánh tình trạng xuất tinh sớm của họ từ khi bắt đầu nghiên cứu, với các tùy chọn hạng mục phản ứng khác nhau, từ tốt hơn nhiều đến tồi tệ hơn nhiều. Vào cuối cuộc nghiên cứu (Tuần 24), 28,4% (nhóm 30 mg) của các đối tượng báo cáo tình trạng của họ là "tốt" hay "tốt hơn nhiều", so với 14% ở nhóm dùng giả dược, trong khi 53,4% đối tượng được điều trị bằng dapoxetin 30 mg, tương ứng, báo cáo tình trạng "tốt hơn một chút", so với 28,8% ở nhóm dùng giả dược.
Dược động học
Hấp thu:
Dapoxetin được hấp thu nhanh chóng với liều tối đa trong huyết tương (Cmax) đạt được xấp xỉ 1 - 2 giờ sau khi uống thuốc. Sinh khả dụng hoàn toàn là 42% ( khoảng từ 15 - 76%). Sau khi dùng một liều uống 30mg khi đói, nồng độ đỉnh trong huyết tương của dapoxetin đạt được tương ứng là 297 mg/ml sau 1,01 giờ.
Khi ăn nhiều chất béo sẽ làm giảm nhẹ Cmax (khoảng 10%) và tăng nhẹ diện tích dưới đường cong (nồng độ AUC khoảng 12%) của Dapoxetin và làm chậm một chút ít thời gian đạt tới nồng độ đỉnh của dapoxetin. Tuy nhiên khi tiêu thụ một lượng chất béo nhiều hơn sẽ không làm ảnh hưởng đến quá trình hấp thụ thuốc. Những thay đổi này không có ý nghĩa trên lâm sàng. Vì vậy có thể uống thuốc khi đói hoặc khi no.
Phân bố:
Có hơn 99% dapoxetin được gắn kết với protein huyết tương của người trong các nghiên cứu in vitro. Chất chuyển hóa có hoạt tính là desmethindapoxetin gắn kết với 98,5% với protein. Dapoxetin được phân bố nhanh chóng với thể tích hằng định trung bình là 162L. Sau khi tiêm tĩnh mạch cho người, thời gian bán thải trung bình ban đầu là 0,10 giờ, thời gian bán thải trung gian là 2,19 giờ, thời gian bán thải cuối cùng là 19,3 giờ.
Chuyển hóa:
Các nghiên cứu in vitro cho rằng dapoxetin được chuyển hóa bởi một hệ thống enzym ở gan và thận, chủ yếu là CYP2D6, CYP3A4 và flavin monooxygenase (FMO1). Dapoxetin được chuyển hóa chủ yếu thành nhiều loại chất chuyển hóa khác nhau, chủ yếu thông qua con đường biến đổi sinh học: N-oxidatio, N-demethylation, naphthyl hydroxylation, glucoronidation và sulfation. Dapoxetin không chuyển hóa và dapoxetin - N - oxide là 2 chất chủ yếu được lưu thông trong huyết tương. Các chất chuyển hóa phụ bao gồm desmethyldapoxetin có đáp ứng tương đương với dapoxetin và didesmethyldapoxetin, chiếm khoảng 50% hiệu lực của dapoxetin. Trong các chất chuyển hóa, chỉ có desmethyldapoxetin có thể góp phần tạo nên tác dụng của dapoxetin trong in vivo. Thời gian bán hủy của desmethyldapoxetin tương đương với dapoxetin.
Thải trừ:
Các chất chuyển hóa của dapoxetin chủ yếu được thải trừ qua nước tiểu ở dạng tiếp hợp. Phần thuốc không chuyển hóa không xác định được trong nước tiểu . Dapoxetin được thải trừ nhanh chóng, dựa vào bằng chứng cho thấy nồng độ còn lại rất thấp sau 24 giờ (dưới 5% so với nồng độ đỉnh). Có một lượng nhỏ dapoxetin được tích lũy sau khi dùng liều hàng ngày. Thời gian bán hủy cuối cùng xấp xỉ vào khoảng 19 giờ sau khi uống thuốc.
Đối tượng đặc biệt:
Hoạt chất chuyển hóa của DED góp phần vào tác dụng dược lý của dapoxetin, đặc biệt là khi sự tiếp xúc DED lên. Trong một số quần thể, các hoạt chất chuyển hóa tăng mức bình thường.
Đó là tổng cộng của các phân tử dapoxetin tự do và DED. DED và dapoxetin có độ mạnh tương đương nhau. Các nghiên cứu giả định rằng việc phân phối của DED là đều nhau ở hệ thần kinh trung ương nhưng không biết liệu điều này có chính xác không.
Chủng tộc:
Phân tích của các nghiên cứu dược lý lâm sàng sử dụng dapoxetin 60 mg liều duy nhất cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa người da trắng, da đen, gốc Tây Ban Nha và châu Á.
Một nghiên cứu lâm sàng tiến hành để so sánh dược động học của dapoxetin trên các đối tượng tại Nhật Bản và chủng tộc da trắng cho thấy nồng độ trong huyết tương của dapoxetin cao hơn 10% đến 20% (AUC và nồng độ đỉnh) ở người Nhật Bản do trọng lượng cơ thể thấp hơn. Việc cao hơn này không có ý nghĩa trên phương diện lâm sàng.
Người cao tuổi:
Phân tích của các nghiên cứu dược lý lâm sàng sử dụng dapoxetin 60 mg liều duy nhất cho thấy không có sự khác biệt đáng kể trong các thông số dược động học (Cmax, AUCinf, Tmax) giữa nam giới cao tuổi khỏe mạnh và nam thanh niên khỏe mạnh. Hiệu quả và an toàn chưa được thành lập trong dân số này.
Bệnh nhân suy thận:
Một nghiên cứu dược lý lâm sàng dùng liều dapoxetin 60 mg duy nhất đã được tiến hành ở những người có suy thận mức độ nhẹ (CrC1 50-80 ml/phút), trung bình (CrCl 30 đến <50 ml/phút), và nặng (CrCI < 30 mL/phút) và cả các đối tượng có chức năng thận bình thường (CrCl > 80 ml/phút). Không có liên quan rõ ràng cho sự gia tăng AUC của dapoxetin với giảm chức năng thận đã được quan sát. AUC ở người suy thận nặng cao xấp xỉ 2 lần ở các đối tượng có chức năng thận bình thường, mặc dù có những hạn chế về việc thu thập số liệu ở những bệnh nhân bị suy thận nặng. Dược động của dapoxetin chưa được nghiên cứu ở bệnh nhân cần chạy thận nhân tạo.
Bệnh nhân suy gan:
Ở những bệnh nhân bị suy gan nhẹ, Cmax tự do của Dapoxetin được giảm 28% còn AUC tự do thì không thay đổi. Các Cmax và AUC tự do của phần hoạt chất (toàn bộ cả Dapoxetin và desmethyl Dapoxetin) được giảm tuần tự 30% và 5%. Ở những bệnh nhân bị suy gan mức độ vừa, Cmax tự do của Dapoxetin không thay đổi (giảm 3%) và AUC tự do tăng 66%. Các Cmax và AUC tự do của hoạt chất về cơ bản không thay đổi và tăng gấp đôi, tương ứng.
Ở những bệnh nhân bị suy gan nặng, Cmax của Dapoxetin giảm 42% nhưng AUC tăng khoảng 223%. Các Cmax và AUC của hoạt chất cũng thay đổi tương tự.
Đa hình kiểu gen CYP2D6:
Trong nghiên cứu dược lý lâm sàng sử dụng liều duy nhất dapoxetin 60 mg, nhận thấy rằng người có CYP2D6 chuyển hóa kém có nồng độ thuốc trong huyết tương cao hơn nhóm người có CYP2D6 chuyển hóa tốt (Cmax cao hơn khoảng 31% đối với và AUCinf cao hơn 36% đối với dapoxetin và Cmax cao hơn 98% đối với và AUCinf 161 % cao hơn đối với desmethyl Dapoxetin). Cmax và AUC của phần hoạt chất của dapoxetin có thể tăng lên tuần tự khoảng 46% và khoảng 90%. Sự gia tăng này có thể dẫn đến nguy cơ cao hơn và mức độ nghiêm trọng của các tác dụng phụ của thuốc đều phụ thuộc liều. Tính an toàn của Dapoxetin ở nhóm người có CYP2D6 chuyển hóa kém cần đặc biệt chú ý khi dùng đồng thời các thuốc khác có khả năng ức chế chuyển hóa của dapoxetin như chất ức chế CYP3A4 vừa và mạnh.
Cách dùng Thuốc Durapil 30
Cách dùng
Thuốc dạng viên dùng đường uống. Uống trọn viên thuốc với một ly nước.
Liều dùng
Nam giới từ 18 - 64 tuổi:
Liều khởi đầu là 30mg trong tất cả mọi trường hợp, uống trước khi quan hệ từ 1 - 3 giờ. Nếu liều 30mg không hiệu quả và tác dụng phụ có thể chấp nhận được thì có thể tăng liều lên tới liều tối đa 60 mg. Liều tối đa khi sử dụng thường xuyên là một lần trong 24 giờ. Thuốc có thể dùng với thức ăn hoặc không.
Bác sỹ khi kê đơn Durapil 30 cần lượng giá được những nguy cơ với những hiệu quả mang lại cho người bệnh sau 4 tuần đầu tiên sử dụng hoặc sau 6 liều Durapil 30 để đánh giá sự cân bằng giữa lợi ích và nguy cơ để xem xét có nên tiếp tục điều trị bằng Durapil 30 nữa hay không.
Người già trên 65 tuổi:
Chưa xác định được liều an toàn và hiệu quả khi sử dụng dapoxetin ở nhóm người trên 65 tuổi.
Trẻ em và thiếu niên:
Không dùng thuốc cho người dưới 18 tuổi.
Những người suy giảm chức năng thận, gan:
Không cần điều chỉnh liều trên những bệnh nhân suy thận ở mức độ nhẹ vừa, suy gan ở mức độ nhẹ. Không sử dụng dapoxetin cho bệnh nhân suy thận nặng, suy gan vừa và nặng.
Bệnh nhân có tình trạng CYP2D6 chuyển hóa kém hoặc bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ức chế CYP2D6 mạnh:
Cần thận trọng khi tăng liều đến 60 mg ở những bệnh nhân được biết là có kiểu gen CYP2D6 chuyển hóa yếu hoặc ở những bệnh nhân dùng đồng thời điều trị bằng thuốc ức chế CYP2D6 mạnh.
Bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ức chế vừa phải hoặc mạnh CYP3A4:
Sử dụng đồng thời các thuốc ức chế mạnh CYP3A4 là chống chỉ định. Liều nên được giới hạn 30mg khi người bệnh dùng đồng thời điều trị bằng thuốc ức chế CYP3A4 vừa phải và cần thận trọng.
Lưu ý: Liều dùng trên chỉ mang tính chất tham khảo. Liều dùng cụ thể tùy thuộc vào thể trạng và mức độ diễn tiến của bệnh. Để có liều dùng phù hợp, bạn cần tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc chuyên viên y tế.
Làm gì khi dùng quá liều?
Không có trường hợp quá liều nào được báo cáo.
Không có các tác dụng ngoại ý bất ngờ với liều hàng ngày lên đến 240 mg (hai liều 120 mg cho cách nhau 3 giờ).
Nói chung, các triệu chứng quá liều bao gồm các phản ứng phụ như buồn ngủ, rối loạn đường tiêu hóa như buồn nôn và nôn, nhịp tim nhanh, run, kích động và chóng mặt.
Trong trường hợp dùng quá liều, nên tiến hành các biện pháp điều trị hỗ trợ.
Do sự gắn kết protein cao và thể tích phân bố của dapoxetin hydroclorid rộng khắp cơ thể, vì vậy dùng thuốc lợi tiểu, chạy thận, truyền máu và lọc máu dường như không có hiệu quả. Hiện chưa có thuốc giải độc hiệu quả cho dapoxetin hydroclorid.
Bảo quản
Để nơi mát, tránh ánh sáng, nhiệt độ dưới 30⁰C.
Để xa tầm tay trẻ em, đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng.