Chào mừng bạn đến với Nhà thuốc Siêu thị thuốc Mega3
Rất nhiều ưu đãi và chương trình khuyến mãi đang chờ đợi bạn
Ưu đãi lớn dành cho thành viên mới

Thuốc trị ung thư vú Nolvadex-D 20mg 30 viên

Thương hiệu: AstraZeneca Loại: Đang cập nhật
Tình trạng: Còn hàng
Mã sản phẩm: 108789
Liên hệ

Thuốc trị ung thư vú Nolvadex-D 20mg 

Thành phần

Hoạt chất: Tamoxifen citrat Ph.Eur. 30.4 mg (tương đương với 20mg tamoxifen).

- Tá dược: Lactose monohydrat, tinh bột ngô, gelatin, croscarmellose natri týp A, magnesi stearat, hydroxypropylmethylcellulose 2910, macrogol 300, titan dioxyd.

Công dụng (Chỉ định)

Nolvadex-D được chỉ định trong điều trị ung thư vú.

Liều dùng

Đường dùng: uống.

Người lớn (kể cả người cao tuổi): Liều dùng từ 20 đến 40 mg/ngày, uống một lần duy nhất hoặc chia làm hai lần. Liều khuyến cáo là 20mg/ngày. Liều 40mg/ngày chỉ sử dụng khi bệnh nhân không đáp ứng với liều 20mg/ngày.

Sử dụng cho trẻ emKhông khuyến cáo sử dụng Nolvadex-D cho trẻ em vì hiệu quả và tính an toàn chưa được thiết lập.

Suy thận: Không cần phải điều chỉnh liều cho bệnh nhân suy thận.

Suy gan: Do thuốc được chuyển hóa qua gan nên thận trọng khi sử dụng cho bệnh nhân suy gan.

Không sử dụng trong trường hợp sau (Chống chỉ định)

Không dùng Nolvadex-D cho những bệnh nhân nhạy cảm với thuốc hoặc bất kỳ thành phần nào của thuốc.

Lưu ý khi sử dụng (Cảnh báo và thận trọng)

Trong khi điều trị ung thư vú bằng Nolvadex-D, một số trường hợp bệnh nhân tiền mãn kinh có thể bị mất kinh.

Sự gia tăng tần suất rối loạn nội mạc tử cung bao gồm tăng sản, políp, ung thư nội mạc tử cung và sacôm tử cung (hầu hết ở dạng u Mullarian thể hỗn hợp ác tính) đã được ghi nhận là có liên quan đến việc điều trị bằng Nolvadex-D. Cơ chế chưa được biết nhưng có thể liên quan đến đặc tính giống oestrogen của Nolvadex-D. Cần theo dõi ngay các bệnh nhân đã và đang dùng Nolvadex-D có các triệu chứng phụ khoa bất thường, đặc biệt là xuất huyết âm đạo, hoặc có biểu hiện rối loạn kinh nguyệt, xuất tiết âm đạo và các triệu chứng như đau hoặc nặng vùng chậu.

Một số khối u tiên phát thứ hai xuất hiện ngoài nội mạc tử cung và vú đối diện đã được ghi nhận trong các thử nghiệm lâm sàng ở bệnh nhân ung thư vú sau khi điều trị bằng tamoxifen. Mối quan hệ nhân quả vẫn chưa được xác lập và tầm quan trọng về mặt lâm sàng của các quan sát này vẫn chưa rõ ràng.

Trong phẫu thuật tái tạo vú bằng kỹ thuật vi phẫu chậm, Nolvadex-D có thể làm tăng nguy cơ xuất hiện biến chứng trên vạt ghép vi mạch.

Thuyên tắc tĩnh mạch do huyết khối (VTE)

- Tăng 2 - 3 lần nguy cơ VTE đã được ghi nhận trên phụ nữ khỏe mạnh sử dụng tamoxifen.

- Bác sĩ cần xem xét kỹ tiền sử bản thân bệnh nhân và gia đình bệnh nhân có từng bị VTE. Nếu có nguy cơ huyết khối, bệnh nhân cần được kiểm tra các yếu tố dễ gây huyết khối. Các bệnh nhân xét nghiệm dương tính cần được hướng dẫn về nguy cơ bị huyết khối. Quyết định sử dụng tamoxifen cho các bệnh nhân này nên dựa trên nguy cơ tổng thể đối với bệnh nhân.

Ở một số bệnh nhân đã chọn lọc, việc sử dụng tamoxifen cùng với thuốc chống đông dự phòng có thể có ích.

- Nguy cơ VTE tăng thêm khi bệnh nhân bị béo phì nặng, khi tuổi bệnh nhân tăng và khi có các yếu tố nguy cơ VTE khác. Tất cả bệnh nhân nên được xem xét cẩn thận về các nguy cơ và lợi ích trước khi điều trị bằng tamoxifen. Nguy cơ này cũng tăng khi có hóa trị liệu phối hợp. Việc sử dụng kéo dài thuốc chống đông dự phòng có thể hữu ích cho một số bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ VTE.

- Phẫu thuật và tình trạng bất động: chỉ nên ngưng trị liệu với tamoxifen khi nguy cơ huyết khối do tamoxifen vượt trội các nguy cơ do ngưng điều trị. Tất cả bệnh nhân nên có biện pháp dự phòng huyết khối thích hợp, và nên được hướng dẫn về cách sử dụng với áp lực trong quá trình nằm viện, tập đi tại sớm, nếu có thể, và điều trị với thuốc chống đông.

- Nếu bệnh nhân có biểu hiện VTE, nên ngưng ngay tamoxifen và tiến hành biện pháp chống đông thích hợp. Quyết định sử dụng lại tamoxifen nên được đánh giá dựa trên nguy cơ tổng thể của bệnh nhân, ở một số bệnh nhân chọn lọc, việc sử dụng tamoxifen cùng với thuốc chống đông dự phòng có thể có ích.

- Tất cả bệnh nhân nên liên lạc với bác sĩ ngay lập tức nếu bệnh nhân có bất kì triệu chứng VTE nào.

Trong một nghiên cứu không có đối chứng trên 28 bệnh nhi nữ từ 2 - 10 tuổi bị hội chứng McCune Albright (MAS) sử dụng 20mg tamoxifen một lần mỗi ngày trong 12 tháng, thể tích trung bình tử cung tăng sau 6 tháng điều trị và tăng gấp đôi vào cuối thử nghiệm kéo dài 1 năm. Mặc dù các ghi nhận này phù hợp với đặc tính dược lực học của tamoxifen, mối liên hệ nhân quả chựa được thiết lập.

Tác dụng không mong muốn (Tác dụng phụ)

Tác dụng phụ của Nolvadex-D có thể phân loại theo tác động dược lý của thuốc như nóng bừng mặt, xuất huyết âm đạo, tiết dịch âm đạo, ngứa âm hộ và phản ứng da xung quanh bướu hay theo tác dụng ngoại ý thường gặp như rối loạn tiêu hóa, nhức đầu, chóng mặt và ít gặp hơn là ứ dịch cơ thể và rụng tóc.

Khi các tác dụng phụ này nặng, có thể xử trí bằng cách giảm liều (đến mức không dưới 20mg/ngày) mà không ảnh hưởng đến việc kiểm soát bệnh. Nếu các tác dụng phụ không giảm khi giảm liều, có thể cần phải ngưng trị liệu.

Nổi mẩn ở da (kể cả các trường hợp hiếm gặp như ban đỏ đa dạng, hội chứng Stevens-Johnson, viêm mao mạch da, dạng pemphigut bọng nước) và các phản ứng quá mẫn, kể cả phù mạch cũng thường được ghi nhận.

Ít gặp trường hợp bệnh nhân di căn xương bị tăng canxi trong máu khi bắt đầu điều trị.

Hiện tượng giảm tiểu cầu, thường giảm còn 80.000 đến 90.000/mm3, đôi khi thấp hơn, được ghi nhận ở bệnh nhân ung thư vú điều trị bằng tamoxifen.

Các trường hợp rối loạn thị giác, bao gồm thay đổi hiếm gặp ở giác mạc và các báo cáo thường gặp về bệnh võng mạc đã được ghi nhận ở những bệnh nhân điều trị bằng Nolvadex-D. Bệnh đục thủy tinh thể thường được ghi nhận có liên quan đến việc dùng Nolvadex-D.

Các trường hợp bệnh lý thần kinh thị giác và viêm thần kinh thị giác đã được ghi nhận trên bệnh nhân sử dụng tamoxifen, và một số ít trường hợp xảy ra mù lòa.

Rối loạn cảm giác (bao gồm dị cảm và loạn vị giác) được ghi nhận thường gặp ở bệnh nhân dùng Nolvadex-D.

U xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung và những thay đổi nội mạc khác kể cả tăng sản và políp cũng được ghi nhận.

U nang buồng trứng hiếm khi quan sát thấy ở những bệnh nhân dùng Nolvadex-D. Polyp âm đạo hiếm khi quan sát thấy ở những bệnh nhân dùng Nolvadex-D.

Hiện tượng giảm bạch cầu quan sát thấy sau khi dùng Nolvadex-D, thỉnh thoảng có liên quan đến tình trạng thiếu máu và/hoặc giảm tiểu cầu. Giảm bạch cầu trung tính được ghi nhận ở một số hiếm trường hợp; đôi khi có thể trở nên trầm trọng và hiếm các trường hợp mất bạch cầu hạt được ghi nhận.

Tai biến mạch máu não do thiếu máu cục bộ và tắc mạch do huyết khối kể cả huyết khối tĩnh mạch sâu, huyết khối vi mạch và nghẽn mạch phổi thường xảy ra khi điều trị bằng Nolvadex-D.

Dùng chung Nolvadex-D với các chất gây độc tế bào có thể làm tăng nguy cơ tắc mạch do huyết khối.

Vọp bẻ ở chân và đau cơ đã được báo cáo là thường xảy ra ở bệnh nhân sử dụng Nolvadex-D.

Ít gặp các trường hợp viêm phổi mô kẽ đã được ghi nhận.

Nolvadex-D có liên quan đến thay đổi nồng độ men gan và một số tình trạng bất thường ở gan trầm trọng hơn, mà trong vài trường hợp có thể dẫn đến tử vong, kể cả gan nhiễm mỡ, ứ mật và viêm gan, suy gan, xơ gan, tổn thương tế bào gan (bao gồm hoại tử gan).

Thường gặp hiện tượng tăng nồng độ triglycerid huyết thanh, trong vài trường hợp có thể xảy ra viêm tụy do dùng Nolvadex-D.

Ít gặp ung thư nội mạc tử cung và hiếm gặp trường hợp sacôm tử cung (hầu hết ở dạng u Mullarian thể hỗn hợp ác tính) có liên quan đến điều trị bằng Nolvadex-D.

Viêm da lupus ban đỏ rất hiếm khi quan sát thấy ở những bệnh nhân dùng Nolvadex-D.

Rối loạn chuyển hóa porphyrin rất hiếm khi quan sát thấy ở những bệnh nhân dùng Nolvadex-D.